Tin tức >> Chính sách có liên quan

Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu sửa đổi: Điểm mới về cách tính thuế

04/05/2016
Luật Thuế xuất khẩu (XK), thuế nhập khẩu (NK) (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII thông qua và ban hành ngày 06/4/2016 Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2016. Trong đó có những quy định mới về cách tính thuế. 

Tách biệt từng loại thuế
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 (còn được gọi là Luật Thuế XK, thuế NK hiện hành) chỉ quy định chung tại Điều 10: “1. Thuế suất đối với hàng hoá xuất khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế xuất khẩu. 2. Thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.”
Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 (hay còn được gọi là Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi) đã quy định cụ thể từng loại thuế gồm: Thuế theo tỷ lệ phần trăm (Điều 6), thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp (Điều 7), thuế đối với hàng hóa nhập khẩu áp dụng hạn ngạch thuế quan (Điều 8)... 
Trong đó, thuế theo tỷ lệ phần trăm “được xác định căn cứ vào trị giá tính thuế và thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) của từng mặt hàng tại thời điểm tính thuế”.
Đồng thời, để phù hợp với việc thực hiện các cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu trong khuôn khổ một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) như TPP, Việt Nam – EU, Luật sửa đổi cũng quy định: “Trường hợp hàng hóa XK sang nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi về thuế XK trong quan hệ thương mại với Việt Nam thì thực hiện theo các thỏa thuận này”. 
Như vậy, quy định tại Luật thuế sửa đổi được tách bạch rõ ràng, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, các cam kết liên quan đến thuế XK và tạo điều kiện cho việc thực hiện các cam kết thuế quan mà Việt Nam tham gia.
Bổ sung quy định về loại thuế suất 
Luật Thuế XK, thuế NK hiện hành chưa có quy định về loại thuế suất được áp dụng cụ thể là thuế NK ưu đãi, ưu đãi đặc biệt hay thuế thông thường… đối với hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường nội địa, do đó chưa bao quát hết các trường hợp phát sinh. 
Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi (hay Luật số 107/2016/QH13) đã bổ sung quy định về áp dụng thuế suất đối với hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường nội địa theo nguyên tắc hàng hóa đáp ứng điều kiện xuất xứ nào thì áp dụng theo mức thuế suất tương ứng với loại xuất xứ đó.
Cụ thể: Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với Việt Nam hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng quy tắc xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng quy tắc xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
Bên cạnh đó, quy định về thuế suất thông thường cũng được sửa đổi, bổ sung. Luật hiện hành quy định thuế suất thông thường không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.
Tại điểm c, khoản 3, Điều 6, Luật sửa đổi đã bổ sung quy định: Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa NK không thuộc các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt nêu trên, “được quy định bằng 150% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng”.
Không quy định khung thuế suất thuế XK
Điều 12 Luật thuế XK, thuế NK hiện hành quy định UB Thường vụ Quốc hội ban hành Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng, bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa (sau đây gọi tắt là Biểu khung). 
Việc quy định mức khung thuế suất, bao gồm cả mức tối thiểu (sàn) và mức tối đa (trần) như thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực và là căn cứ quan trọng để Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ưu đãi MFN đối với từng mặt hàng; đáp ứng tính chủ động, kịp thời trước những biến động giá cả của thị trường thế giới, góp phần bình ổn giá cả thị trường trong nước và phù hợp với tính chất đặc thù của Biểu thuế NK.
Tuy nhiên, kể từ năm 2007 khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết cho 100% số dòng thuế tại thời điểm gia nhập và phải cắt giảm hàng năm theo lộ trình cam kết, đến nay lộ trình này cơ bản hoàn thành. Do đó, việc quy định mức trần tối đa Biểu khung thuế suất thuế NK như hiện hành thực tế không có ý nghĩa. Bên cạnh đó, về mức thuế suất sàn (tối thiểu) thuế suất NK cũng bộc lộ bất cập, do vậy việc xây dựng sàn thuế (tối thiểu) của Biểu khung thuế suất thuế NK như hiện hành là không phù hợp.
Để khắc phục, Luật sửa đổi và Danh mục nhóm hàng chịu thuế XK không quy định khung thuế suất thuế xuất, nhập khẩu mà thay bằng quy định mức tối thiểu đối với một số nhóm hàng chịu thuế XK.
Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước(2)
Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổicũng đã bổ sung nội dung quan trọng về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử để góp phần bảo vệ nền sản xuất kinh doanh trong nước, phù hợp định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết. 
Tại khoản 2, 3 Điều 5 và khoản 1, 2, 3, 4  Điều 11 Luật thuế XK, NK hiện hành đã có quy định các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhưng chưa đầy đủ. Mới chỉ dừng ở việc định danh về các biện pháp này. 
Việc áp dụng các loại thuế phòng vệ đang được thực hiện theo quy định tại các Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ. 
Theo kinh nghiệm quốc tế thì các nội dung về thuế áp dụng đối với hàng hóa XK, NK phải được quy định thống nhất tại Luật thuế XK, thuế NK để đảm bảo sự nhất quán, xuyên suốt, nhằm phát huy vai trò là công cụ bảo vệ sự lành mạnh của môi trường kinh tế, bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước trong điều kiện phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế gần như xuống 0% trong thời gian tới. 
Mặt khác, nâng quy định pháp lý từ Pháp lệnh lên thành Luật và việc hợp nhất các nội dung về các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa XK, NK tại Luật thuế XK, thuế NK phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tạo sự rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Để phát huy công cụ bảo vệ này, trong phạm vi điều chỉnh, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã bổ sung các biện pháp phòng vệ về thuế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ. 
Trong phần giải thích từ ngữ, Luật đã bổ sung giải thích một loạt cụm từ ngữ có liên quan về 3 loại thuế phòng vệ được chuyển nguyên trạng từ quy định tại các Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ, bao gồm: “Gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước”; “Ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước”; “Ngành sản xuất trong nước”; “Trợ cấp”; “Nhập khẩu hàng hoá quá mức”...
Tại chương III (từ Điều 12 đến Điều 15) Luật quy định về nội hàm của từng biện pháp phòng vệ vệ thuế như điều kiện, nguyên tắc, thời hạn áp dụng biện pháp phòng vệ và thẩm quyền áp dụng các loại thuế này. 
Các nội dung này về cơ bản kế thừa quy định tại 3 Pháp lệnh hiện hành và có bổ sung thẩm quyền của Bộ Tài chính về việc quy định kê khai, thu, nộp, hoàn trả số tiền thuế phòng vệ.
Cụ thể về thẩm quyền quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá; thuế chống trợ cấp; thuế tự vệ, Luật quy định:
- Bộ Công Thương quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ.
- Bộ Tài chính quy định việc kê khai, thu, nộp, hoàn trả thuế bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ.
- Trường hợp lợi ích của Việt Nam bị xâm hại hay vi phạm, căn cứ vào các điều ước quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội quyết định áp dụng biện pháp thuế phòng vệ khác phù hợp. 
Về các nội dung liên quan đến trình tự thủ tục, hồ sơ để thực hiện các biện pháp phòng vệ về thuế, khiếu nại và xử lý vi phạm hiện đang được quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ, sẽ không quy định cụ thể tại Luật này mà quy định tại Nghị định hướng dẫn Luật. 
Đồng thời cũng bỏ các nội dung liên quan đến khiếu nại và xử lý vi phạm tại Luật này để thực hiện theo Luật khiếu nại và các pháp luật khác có liên quan.
Điều này nhằm đảm bảo tính linh hoạt, chủ động cho đơn vị chủ trì triển khai quyết định áp dụng các biện pháp tự vệ về thuế. 
Nguồn:

 



Quay về Tải về...

THÔNG TIN LIÊN QUAN

Xem tất cả >>