An ninh dầu mỏ năm 2020 của châu Á đứng trước nhiều yếu tố tác động trái chiều. Ảnh: AP/TTXVN
Theo dự đoán của các nhà phân tích, giá dầu tương đối ổn định trong năm 2019, song có khả năng biến động mạnh trong năm 2020.
Các cơ quan, tổ chức dự báo hàng đầu bao gồm các ngân hàng lớn niêm yết trên thị trường chứng khoán Phố Wall (Mỹ), Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã đưa ra các dự đoán khác nhau về triển vọng giá dầu thế giới trong năm 2020. Trong đó, các ngân hàng cho rằng giá dầu sẽ tăng nhẹ, trong khi EIA dự báo giá “vàng đen” sẽ đi xuống trong năm 2020.
Giới chuyên gia nhận định, hiện có một số yếu tố chính sẽ tác động tới giá dầu trong năm 2020. Tình trạng kinh tế tăng trưởng chậm lại bắt nguồn từ những quan ngại và tác động tiêu cực của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung kéo dài hơn 1 năm qua cũng đã gây sức ép lên giá dầu.
Cả hai nền kinh tế của Mỹ và Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng bất lợi của “thương chiến” và đang nỗ lực kết thúc tình trạng này. Nếu Mỹ và Trung Quốc bắt đầu nới lỏng thuế quan áp đặt lên hàng hóa nhập khẩu của nhau theo thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 được công bố vào ngày 13/12 vừa qua, tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể lấy lại đà đi lên, qua đó đẩy giá dầu tăng.
Trong khi đó, tỷ giá hối đoái gây ra rủi ro khác đối với giá dầu. So với năm 2018, đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc, đồng Rupee của Ấn Độ, đồng Won của Hàn Quốc, đồng Ringgit của Malaysia và đồng Rupiah của Indonesia đều yếu hơn nhiều so với đồng USD trong năm 2019.
Trong khi đó, đồng USD vẫn mạnh trong năm 2019, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã cắt giảm lãi suất 3 lần trong năm nay. Nếu FED vẫn giữ quan điểm về lãi suất trong năm 2020 như đã “báo hiệu” trước đó và nền kinh tế Mỹ tiếp tục nhịp độ tăng trưởng như hiện tại thì đồng USD có thể duy trì sức mạnh.
Tuy vậy, giá dầu thô sẽ nhận được sự hỗ trợ từ một số yếu tố khác. Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và 10 nước sản xuất dầu liên minh – còn gọi là OPEC+ - đã ký thỏa thuận cắt giảm sản lượng “vàng đen” kể từ đầu năm 2017 và mới đây đã cam kết cắt giảm thêm sản lượng trong quý I/2020.
Kết hợp với việc cắt giảm sản lượng dầu liên tục, OPEC+ đã đồng ý trong quý I/2020 sẽ giảm sản lượng dầu gần 2 triệu thùng/ngày so với mức vào cuối năm 2018. Việc cắt giảm sản lượng dầu này dự kiến sẽ kéo dài trong cả năm 2020.
Trong khi đó, Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới và quốc gia thành viên chủ chốt của OPEC, đã thực hiện đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) được chờ đợi của Công ty dầu mỏ quốc gia Saudi Aramco vào tháng 11/2019. Với cổ phiếu của Aramco hiện đang giao dịch trên thị trường chứng khoán Tadawul của Saudi Arabia và dưới sự giám sát chặt chẽ của nhà đầu tư quốc tế, Saudi Arabia có thể được khuyến khích đẩy giá dầu tăng bằng cách siết chặt nguồn cung.
Khu vực Trung Đông với trữ lượng dầu mỏ dồi dào dự kiến sẽ vẫn là một “điểm nóng” địa chính trị, ảnh hưởng tới tình hình an ninh năng lượng của châu Á. Các quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất ở châu Á – bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc – phụ thuộc vào Trung Đông, vì khu vực này cung cấp gần 50% tổng nhu cầu dầu thô của họ.
Một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và tên lửa vào các cơ sở dầu mỏ Abqaiq và Khurais của Saudi Arabia hồi tháng 9/2019 đã “lấy đi” khoảng 6% sản lượng dầu của thế giới. Mặc dù việc giá dầu thô tăng mạnh đã nhanh chóng “hạ nhiệt” khi Saudi Arabia sử dụng kho dự trữ dầu của nước này để duy trì hoạt động xuất khẩu như bình thường và nhanh chóng sửa chữa các cơ sở sản xuất dầu bị hư hại, song Aramco cảnh báo cơ sở hạ tầng dầu mỏ quan trọng của công ty này rất dễ bị ảnh hưởng bởi những gián đoạn như trên.
Tương tự, các cuộc tấn công vào tàu chở dầu quanh Vịnh Ba Tư vào tháng 5/2019 và tháng 6/2019 đã gây ra những quan ngại nghiêm trọng và từ đó đã đẩy phí bảo hiểm đối với các tàu đi qua khu vực này gia tăng, làm tăng thêm chi phí của các doanh nghiệp dầu mỏ.
Saudi Arabia cho rằng các cuộc tấn công tàu chở dầu là từ Iran song quốc gia này bác bỏ cáo buộc trên cho dù vẫn công khai quan điểm thiếu thiện cảm với Mỹ và Saudi Arabia.
Sự khó đoán về biến động của giá dầu thô và chi phí đảm bảo an ninh nguồn cung trước các rủi ro địa chính trị gia tăng có thể gây khó khăn đối với các nước và khách hàng mua dầu của châu Á trong năm 2020 và sau đó.
Các nước nhập khẩu dầu ở châu Á sẽ cần tiếp tục đa dạng hóa các nguồn cung dầu thô cũng như đẩy nhanh việc xây dựng trữ lượng dầu chiến lược của họ để có thể ứng phó tất cả sự cố bất ngờ như mất điện lớn. Tại các nước châu Á không thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), chỉ có Trung Quốc xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược trong khi Ấn Độ rõ ràng đang "chậm chân" trong lĩnh vực này.
Một số cường quốc châu Á đã duy trì lực lượng hải quân ở Vịnh Ba Tư để bảo vệ các tàu chở dầu của họ sau khi các vụ tấn công nói trên và hiện có lẽ đã đến lúc các nước xây dựng một chiến lược dài hạn mang tính khu vực về vấn đề này.
Với quan điểm luôn đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu dài hạn, Chính phủ các nước châu Á đã tăng cường nỗ lực nhằm giảm sự phụ thuộc dầu thông qua việc sử dụng khí đốt tự nhiên thay thế, nâng cao hơn sản lượng năng lượng tái tạo và thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và áp dụng nhanh chóng các công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Theo các nhà phân tích, mặc dù những lo ngại về môi trường đối với khí thải gây ra bởi nhiên liệu hóa thạch hiện đang nhắm vào các công ty sản xuất dầu khí lớn trên thế giới, song các nước tiêu thụ dầu cũng cần thực hiện vai trò của họ. Trách nhiệm này rất lớn đối với Trung Quốc và Ấn Độ – các quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ 2 và thứ 3 trên thế giới với nhu cầu dầu tăng nhanh nhất.
Trước đó, trong báo cáo Triển vọng năng lượng thế giới đến năm 2040 công bố ngày 13/11, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nhận định tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sẽ chậm lại từ năm 2025, khi hiệu quả sử dụng nhiên liệu được nâng cao và mức độ sử dụng xe điện gia tăng, nhưng không thể đạt đỉnh trong 2 thập niên tới.
Dựa trên những chính sách năng lượng hiện nay và các mục tiêu đã được thông báo, IEA dự báo nhu cầu dầu mỏ sẽ tăng trung bình khoảng 1 triệu thùng/ngày mỗi năm đến năm 2025, từ mức 97 triệu thùng/ngày năm 2018, sau đó tăng trung bình 0,1 triệu thùng/ngày mỗi năm trong những năm 2030, đạt mức 106 triệu thùng/ngày vào năm 2040./.