Tin tức >> Kinh tế trong nước có liên quan

Bộ Tài nguyên Môi trường lên tiếng về tăng gánh nặng, chi phí về môi trường cho doanh nghiệp

27/09/2021

Ngày 22/9/2021, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lên tiếng trước ý kiến của một số tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (Dự thảo Nghị định) và cho rằng sẽ làm tăng gánh nặng, chi phí về môi trường cho doanh nghiệp.


 Phí bảo vệ môi trường cần được xem xét kỹ, hợp lý trước khi ban hành. Ảnh minh họa: Vân Hà

Đã tiếp thu và hoàn thiện

Theo đó, ngày 30/8/2021, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã tiếp tục tổ chức buổi làm việc với các doanh nghiệp về các nội dung được nhiều doanh nghiệp quan tâm; trên cơ sở đó, đã tiếp thu nhiều ý kiến góp ý. Bộ này cho biết, các ý kiến của một số doanh nghiệp là dựa trên bản Dự thảo Nghị định tại buổi làm việc ngày 30/8/2021 nói trên, chưa phải là bản mới nhất đã tiếp thu, hoàn thiện.Bộ TNMT cho biết, về cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trong lĩnh vực môi trường: Dự thảo nghị định đã bám sát, cụ thể hóa chủ trương cải cách TTHC theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2020; trong đó, đã giảm 18 TTHC so với quy định hiện hành (giảm 34%); tích hợp 7 loại giấy phép, xác nhận gồm: Giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT, giấy xác nhận đủ điều kiện về BVMT trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, giấy phép xả khí thải công nghiệp, giấy phép xử lý chất thải nguy hại (CTNH), giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, giấy phép xả nước thải vào công trình thuỷ lợi, Sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH vào 1 giấy phép môi trường (GPMT)."Như vậy, nếu như trước đây thay vì phải thực hiện nhiều giấy phép đơn lẻ thì theo dự thảo nghị định, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện 1 thủ tục là đề nghị cấp GPMT" – Bộ cho hay.
Về đối tượng đánh giá tác động môi trường (TĐTM), cấp GPMT: Một số hiệp hội cho rằng trước đây, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải làm ĐTM và xin GPMT, nhưng với quy định mới thì các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II kể cả đã hoạt động cũng phải làm ĐTM và xin GPMT, Bộ cho rằng không có cơ sở.Bộ TNMT cho biết, Khoản 1 Điều 30 Luật BVMT quy định đối tượng phải thực hiện ĐTM là dự án nhóm I và nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, đầu tư trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa…
Bộ TNMT cho hay, dự thảo Nghị định mới (bản cập nhật đến ngày 16/9 và gửi Bộ Tư pháp thẩm định) đã tiếp thu nhiều ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp tại buổi làm việc ngày 30/8 theo hướng đơn giản hóa nhiều quy định về hồ sơ, trình tự đề nghị cấp GPMT như: Chỉnh sửa nội dung báo cáo đề xuất cấp GPMT đơn giản hơn, phù hợp với từng đối tượng được cấp GPMT, trong đó chỉ yêu cầu các thông tin liên quan đến các công trình BVMT đã hoàn thành, kết quả thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường...; bỏ trình tự về thông báo việc nộp phí thẩm định cấp GPMT; đơn giản hóa quy trình rà soát tính hợp lệ của hồ sơ theo hướng chỉ thực hiện 1 lần (theo dự thảo cũ thì thực hiện 2 lần khi tiếp nhận hồ sơ và khi thành lập đoàn kiểm tra).
Về quan trắc chất thải, theo Bộ TNMT, dự thảo Nghị định đến ngày 16/9/2021 gửi Bộ Tư pháp thẩm định không quy định mức xả thải càng lớn thì phải thực hiện tần suất quan trắc định kỳ càng nhiều (6 hoặc 12 lần/năm); thay vào đó, quy định tần suất quan trắc thực hiện như quy định hiện hành nhưng chỉ áp dụng đối với nguồn nước thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 200m3/ngày đối với loại hình gây ô nhiễm và trên 500m3/ngày đối với loại hình khác) và nguồn khí thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 50.000m3/giờ…).Đặc biệt, đối với các dự án, cơ sở thực hiện tốt công tác BVMT trong 3 năm liên tiếp với kết quả quan trắc chất thải đạt QCVN và kết quả thanh tra, kiểm tra không vi phạm hành vi xả thải vượt QCVN thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời hạn của GPMT. 
Lùi thời gian hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động
Dự thảo đã tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua đại dịch COVID-19 và chỉnh lý theo hướng lùi thời gian phải hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024. Đối với các trường hợp đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục theo quy định thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời gian này.Từ ngày 01/01/2025, dự án, cơ sở đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục với các thông số ô nhiễm đặc trưng của nguồn thải thì được miễn thực hiện quan trắc chất thải định kỳ. Kế thừa quy định hiện hành quy định mức lưu lượng xả nước thải từ 500m3/ngày trở lên đối với trường hợp thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và từ 1.000m3/ngày trở lên đối với các trường hợp còn lại.Đặc biệt, theo lộ trình Chính phủ quy định và với đặc trưng riêng của các thiết bị xả, bụi khí thải, trước mắt yêu cầu các dự án, cơ sở có phát sinh bụi, khí thải với lưu lượng rất lớn (trên 100.000m3/giờ) thực hiện quan trắc tự động, liên tục; các trường hợp xả bụi, khí thải lớn (từ 50.000m3/giờ đến dưới 100.000m3/giờ) nếu thực hiện lắp đặt hệ thống quan trắc, tự động liên tục thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ.
Không quy định cụ thể tỷ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì
Về tỷ lệ tái chế bắt buộc, có ý kiến cho rằng, dự thảo quy định tỷ lệ tái chế bắt buộc áp dụng ngay ở mức 80 – 90%, theo Bộ TNMT, đây là phản ánh chưa đúng nội dung quy định này, có sự hiểu nhầm với tỷ lệ thu hồi tối thiểu của nguyên liệu, vật liệu trong bao bì, sản phẩm. Dự thảo nghị định hiện nay không quy định cụ thể tỷ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì mà chỉ quy định công thức tham chiếu và quy trình xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc cho từng giai đoạn.
Theo công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu trong dự thảo nghị định thì cao nhất dự kiến là bao bì nhôm, chai PET ở mức 22,5% và thấp nhất là phương tiện giao thông ở mức 1,8%. Tỉ lệ này chỉ bằng 1/3 tỷ lệ tái chế của các quốc gia ở châu Âu từ những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, đối với phương tiện giao thông thì chỉ bằng 1/5 của châu Âu thời điểm mới bắt đầu áp dụng EPR. Hiện tại, dự thảo nghị định quy định mức tăng tỷ lệ tái chế bắt buộc không quá 5% cho 3 năm, như vậy, Việt Nam sẽ mất ít nhất 20 – 30 năm mới đạt tỷ lệ như các quốc gia ở châu Âu tại thời điểm này.


Quay về

THÔNG TIN LIÊN QUAN

Xem tất cả >>