Ngành cao su Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ 19, khi thực dân Pháp đưa cây cao su vào trồng thí nghiệm tại Sài Gòn vào năm 1863, sau đó mở rộng thành các đồn điền lớn ở miền Nam. Dưới sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp, những người công nhân cao su phải chịu đựng cuộc sống lao động khổ sai. Chính trong hoàn cảnh bị áp bức tột cùng, phong trào đấu tranh của công nhân cao su đã nhen nhóm và phát triển mạnh mẽ. Từ những cuộc vùng dậy tự phát, họ dần đi đến đấu tranh tự giác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điển hình là việc thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng vào đêm 28/10/1929, đánh dấu bước ngoặt lớn, từ đó Đảng Cộng sản nắm ngọn cờ lãnh đạo phong trào công nhân cao su. Các cuộc bãi công, biểu tình diễn ra sôi nổi tại nhiều đồn điền như Phú Riềng, Michelin, Dầu Giây, An Lộc, Quản Lợi... đòi quyền dân chủ, dân sinh, chống thực dân đế quốc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Mặc dù đối mặt với sự đàn áp dã man của kẻ thù, phong trào vẫn kiên cường phát triển, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi toàn bộ các đồn điền cao su đều về tay công nhân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Hoa Kỳ, công nhân cao su tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ngành cao su gặp nhiều khó khăn khi gần 5.000 ha vườn cây bị bỏ hoang, nhà máy đóng cửa, 55.000 công nhân thất nghiệp. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên đoàn cao su, công nhân đã tiếp quản cơ sở vật chất, tăng gia sản xuất, và thành lập lực lượng tự vệ để chống lại sự tái chiếm của thực dân Pháp. Họ tham gia “Mặt trận cao su chiến’’, tổ chức phá hoại sản xuất cao su của địch, gây thiệt hại lớn cho tư bản Pháp, đồng thời tham gia phục vụ chiến đấu và chiến đấu chống quân xâm lược. Trong kháng chiến chống Hoa Kỳ, công nhân cao su miền Nam tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, cải thiện đời sống, xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến ngày 30/4/1975, tất cả các đồn điền cao su trên toàn miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đánh dấu sự đóng góp to lớn của ngành vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
.jpg)
Một dự án trồng cao su của VRG. Ảnh: VRG
Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, ngành cao su đứng trước nhiều thách thức lớn. Diện tích cao su ở miền Nam còn lại 42.076 ha, nhiều vườn cây đã già cỗi, máy móc hư hại nặng nề. Tuy nhiên, với tinh thần lao động hăng say và ý chí phục hồi sản xuất, công nhân cao su đã nhanh chóng trở lại đồn điền, khôi phục sản xuất. Năm 1976, toàn ngành đã đưa 25.000 ha vào khai thác, khai hoang thêm 18.000 ha (dù phải đối mặt với nguy hiểm từ bom mìn còn sót lại), và đạt sản lượng 36.590 tấn mủ các loại. Ngày 11/3/1977, Tổng cục Cao su được chuyển thành Tổng Công ty Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp, với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và quản lý tất cả các vườn cao su. Ngành đã triển khai chương trình hợp tác trồng mới 50.000 ha cao su với Liên Xô và Bulgaria, mở rộng diện tích ra Tây Nguyên, nâng tổng diện tích lên 77.000 ha vào cuối năm 1980, với sản lượng đạt 198.000 tấn mủ khô, xuất khẩu 153.000 tấn.
Trong giai đoạn 1981-1985, ngành cao su được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, với sự ra đời của Binh đoàn 23 và việc mở rộng 18 công ty cao su, tạo việc làm cho 140.000 người vào cuối năm 1985. Bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986), ngành cao su chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang tự chủ sản xuất kinh doanh, vận hành theo cơ chế thị trường. Năm 1989, Tổng Công ty Cao su Việt Nam được thành lập, có nhiệm vụ trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến mủ cao su, thu mua nguyên liệu, sản xuất các sản phẩm từ cao su để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu trong nước. Ngành đã khắc phục những yếu kém, cải tiến quản lý, chú trọng chính sách và cải thiện đời sống công nhân, xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi. Đến năm 1995, Tổng Công ty Cao su Việt Nam chính thức hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những năm đầu thế kỷ 21 (2001-2005), ngành cao su Việt Nam phát triển mạnh mẽ, mở rộng diện tích không chỉ ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ mà còn sang các tỉnh miền Trung, Tây Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Năng suất cao su được nâng lên đáng kể, đạt từ 2 đến 3 tấn/ha, và giá bán sản phẩm luôn ở mức cao. Đến năm 2006, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) được thành lập (chính thức chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần vào năm 2018). Hiện nay, Tập đoàn quản lý 115 công ty, với tổng diện tích vườn cây gần 400.000 ha (trong đó có mặt tại Campuchia và Lào), tạo việc làm và thu nhập ổn định cho trên 81.800 lao động, tập trung vào 6 lĩnh vực kinh doanh chính: trồng, chế biến, kinh doanh cao su; chế biến gỗ; sản phẩm công nghiệp cao su; đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp; và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Năng lượng sạch và tái tạo. Mỗi năm, Tập đoàn sản xuất bình quân hơn 500.000 tấn cao su các loại, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế, ngoài ra còn góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, đóng góp vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới, và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Nhìn lại chặng đường 80 năm xây dựng đất nước kể từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngành cao su Việt Nam tự hào là một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc. Ngành cao su đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, cùng với hàng trăm danh hiệu Anh hùng và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho các đơn vị và cá nhân. Những thành tựu này không chỉ là sự ghi nhận cho những nỗ lực không ngừng nghỉ, mà còn là minh chứng sống động cho vai trò và đóng góp của ngành cao su vào sự nghiệp cách mạng và công cuộc phát triển đất nước.
Sơn Trang, nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/nganh-cao-su-80-nam-dong-hanh-cung-dat-nuoc-d768788.html, ngày 21/8/2025 (HG trích dẫn)