.png)
Báo cáo của Forest Trends nhấn mạnh nông hộ là lực lượng sản xuất chủ chốt trong các ngành cà phê, cao su và gỗ rừng trồng, do đó bất kỳ thay đổi về chính sách hay yêu cầu thị trường quốc tế đều tác động trực tiếp tới hàng triệu hộ. Thách thức chính trong truy xuất nguồn gốc bao gồm dữ liệu tọa độ và bản đồ sử dụng đất chưa đầy đủ, thiếu sổ đỏ hoặc chứng nhận quyền sử dụng đất, nguồn cung phân tán với quy mô nhỏ, liên kết nông hộ – đại lý – công ty yếu, rủi ro trộn lẫn nguồn cung và dữ liệu truy xuất rời rạc.
Tuy nhiên, một số thuận lợi đang nổi lên: diện tích nông hộ có chứng chỉ tăng (cà phê 29%, cao su 14%, gỗ 15%), các công ty hình thành vùng nguyên liệu truy xuất được, chính phủ hỗ trợ nông hộ thực hiện truy xuất qua các dự án trồng rừng có chứng chỉ và đề án mã số rừng trồng, cùng với phát triển nền tảng truy xuất kỹ thuật số và nhận thức doanh nghiệp cải thiện.Khuyến nghị gồm thiết lập hệ thống cập nhật thông tin nông hộ (sản xuất, diện tích, sản phẩm, quyền sử dụng đất, giao dịch, cam kết chống mất rừng), đồng bộ chính sách đất đai – rừng – quyền sử dụng đất, và triển khai cơ chế hỗ trợ nông hộ đảm bảo sinh kế, duy trì vai trò xã hội và đóng góp của họ trong các chuỗi cung ứng chiến lược quốc gia.
Đại biểu từ Công ty Tuấn Lộc và Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chia sẻ kinh nghiệm triển khai thực tế tại doanh nghiệp và ngành hàng. Các chính sách thuế mới được đánh giá giúp đảm bảo cung cấp hồ sơ pháp lý. Nhật ký canh tác là công cụ kiểm soát chất lượng chuỗi cung, nhưng ngay cả khi mẫu chỉ yêu cầu khoảng 200 chữ/năm, nhiều hộ vẫn chưa thực hiện do thói quen lâu năm và nhận thức về truy xuất nguồn gốc còn hạn chế. Chuỗi thu mua ở ba ngành hàng phức tạp với nhiều trung gian; do đó, tập trung đào tạo truy xuất nguồn gốc cho các đại lý thu mua – “cầu nối” giữa nông hộ và doanh nghiệp – được đánh giá phù hợp, mang lại hiệu quả lan tỏa cao hơn trong toàn chuỗi.
Hội thảo còn bao gồm phần trình bày của Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững về Tiềm năng nâng cao thu nhập của nông hộ từ tín chỉ các-bon trong lâm nghiệp và sử dụng đất. Có hai loại dự án phù hợp để nông hộ tham gia tạo tín chỉ các‑bon là nông lâm kết hợp và cải thiện quản lý rừng trồng. Với mô hình nông lâm kết hợp, nông hộ trồng xen cây thân gỗ (50–150 cây/ha) và sử dụng phân bón hiệu quả. Với mô hình cải thiện rừng trồng, hộ cần giảm đốt sinh khối, kéo dài chu kỳ kinh doanh và tăng năng suất, đồng thời sử dụng nguyên, nhiên liệu đầu vào (phân bón, xăng dầu trong vận chuyển, v.v) một cách hợp lý. Cần lưu ý, thực hiện dự án các-bon trong lâm nghiệp đối với nông hộ đòi hỏi sự thay đổi trong quản trị và kinh doanh rừng trồng, hợp tác hiệu quả giữa doanh nghiệp và các nông hộ trong xây dựng và thực hiện dự án trên quy mô phù hợp.
Xem tài liệu và ghi hình Hội thảo tại đây
Văn phòng HHCSVN tổng hợp (Hương Giang)