Dự hội thảo có đại diện các cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu các mặt hàng cao su, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức quốc tế.
Quang cảnh buổi Hội thảo
Quy định chống phá rừng của EU
EU ban hành Quy định chống phá rừng (EU Deforestation Regulation, EUDR) chính thức có hiệu lực từ ngày 29/6/2023. Theo EUDR, 7 nhóm mặt hàng trong đó có cao su và các sản phẩm từ cao su sẽ bị cấm nhập khẩu vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này vi phạm các quy định của quốc gia xuất khẩu và/hoặc gây mất rừng và suy thoái rừng, với thời điểm mất rừng/suy thoái rừng được tính từ ngày 31/12/2020 trở về sau. Các doanh nghiệp nhập khẩu vào EU có thời gian 18 tháng (công ty lớn) hoặc 24 tháng (công ty vừa và nhỏ) để chuẩn bị cho việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR. Đáp ứng với các yêu cầu của EUDR có vai trò quan trọng trong việc duy trì tiếp cận thị trường này. Ông Võ Hoàng An, Tổng Thư ký VRA, cho biết, mặc dù không phải là thị trường xuất khẩu dẫn đầu, nhưng EU vẫn là khách hàng quan trọng đối với các nhóm ngành cao su thiên nhiên và sản phẩm cao su của Việt Nam. EU là thị trường khó tính nhưng tiềm năng, có sức mua cao và còn nhiều dư địa, đặc biệt khi có Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA). Theo VRA, việc EU ban hành EUDR sẽ tác động không nhỏ đến ngành cao su Việt Nam.
Ngành cao su chủ động ứng phó
Theo ông Nguyễn Vinh Quang, cán bộ nghiên cứu của Tổ chức Forest Trends: “Khó khăn lớn nhất của ngành cao su Việt Nam trong việc đảm bảo truy xuất nguồn gốc của ngành cao su Việt Nam nằm ở phần cung nguyên liệu của cao su tiểu điền trong nước và phần cao su nhập khẩu”. Hiện tại, chuỗi cung 2 tiểu điền tương đối phức tạp, với cao su khai thác từ các hộ đi qua nhiều khâu trước khi được đưa vào chế biến. Một số diện tích cao su tiểu điền chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất. Thông tin về nguồn cung nhập khẩu từ Campuchia và Lào hiện rất ít. Chuỗi cung nhập khẩu hiện tại không cho phép việc truy xuất nguồn gốc. Thực trạng trên cho thấy, Việt Nam chưa thể đáp ứng yêu cầu có đầy đủ thông tin và bằng chứng chứng minh sản phẩm cao su không gây mất rừng và hợp pháp theo quy định của EUDR, trong toàn bộ chuỗi cung từ các vườn trong nước và nguồn nhập khẩu... Áp lực đầu tư công nghệ để đáp ứng quy định cũng là gánh nặng không nhỏ cho doanh nghiệp. Đặc biệt, với cách định nghĩa rộng về suy thoái rừng, nhiều diện tích rừng cao su sản xuất của Việt Nam có thể bị xem là gây suy thoái rừng theo EUDR. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá rủi ro của EU đối với Việt Nam.
Thực hiện nghiêm việc truy xuất nguồn gốc
Đề xuất các giải pháp hướng tới đáp ứng đầy đủ các quy định của EUDR và phát triển bền vững ngành cao su Việt Nam trong tương lai, ông Hoàng Thành, đại diện của Phái đoàn EU tại Việt Nam cho biết: “Để đáp ứng yêu cầu của EUDR, các sản phẩm từ cao su muốn nhập khẩu vào thị trường EU cần được đảm bảo đã được thực hiện đầy đủ các quy định về trách nhiệm giải trình, bao gồm việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm tới từng lô đất sản xuất ra các hàng hóa đó”.
Ông Tô Xuân Phúc – Chuyên gia của Tổ chức Forest Trends nhấn mạnh, việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR đóng vai trò quan trọng nhằm duy trì tiếp cận đối với thị trường này trong tương lai. Yêu cầu EUDR đòi hỏi ngành cao su Việt Nam cần đánh giá lại toàn bộ các nguồn cung, hệ thống hóa và tài liệu hóa kênh lưu thông và sản phẩm đầu ra. Đối với nguồn cung trong nước, cần thực hiện nghiêm việc truy xuất nguồn gốc. Các doanh nghiệp có diện tích cao su tập trung cần ưu tiên thực hiện các hoạt động nhằm đạt chứng chỉ quản lý bền vững. Đối với nguồn cao su nhập khẩu, thu thập thông tin và minh bạch về nguồn cung đóng vai trò tối quan trọng. Thông tin cần thu thập bao gồm nguồn gốc cao su nhập khẩu, các bên tham gia chuỗi, các quốc gia cung ứng, bằng chứng về các giao dịch giữa các bên và bằng chứng về sự tuân thủ với các quy định pháp luật của các bên tham gia chuỗi tại các quốc gia này. Với tình trạng chuỗi cung phức tạp và thiếu thông tin như hiện nay, nguồn cung nhập khẩu hiện chưa rõ nguồn gốc cần được tách bạch với các nguồn.
Ngoài ra, Việt Nam, các quốc gia cung cao su nguyên liệu cho Việt Nam và các quốc gia nhập khẩu các mặt hàng cao su từ Việt Nam cần xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin về chuỗi cung, từ nguồn cung nguyên liệu đến các thị trường tiêu thụ các mặt hàng cao su. Việc ứng dụng các giải pháp số hóa, trí tuệ nhân tạo, blockchain thời gian thực có thể giúp đơn giản hoá, minh bạch và tiếp cận nhanh chóng các thông tin được chia sẻ giữa các bên liên quan trong chuỗi. Về phía doanh nghiệp, các đơn vị xuất khẩu cần chủ động rà soát chuỗi cung ứng, xây dựng cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc, đánh giá rủi ro bằng ứng dụng công nghệ tích hợp. Doanh nghiệp cũng cần duy trì và mở rộng chuỗi cung nguyên liệu có chứng chỉ bền vững để đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc; đồng thời, hợp tác chặt chẽ với nhà nhập khẩu EU để thay đổi, điều chỉnh chuỗi cung phù hợp với quy định mới.
Tại Việt Nam, ngay từ giai đoạn đầu EUDR được đề xuất, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tích cực làm việc với EC để tháo gỡ các vấn đề cụ thể. Về phía VRA, đã tích cực phổ biến thông tin và chia sẻ kinh nghiệm với doanh nghiệp về các giải pháp thích ứng với EUDR. VRA cũng tổ chức nhiều hoạt động kết nối doanh nghiệp với nhà quản lý, tổ chức trong và ngoài nước. VRA cũng kiến nghị với Bộ ngành cần nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao năng lực cho hộ tiểu điền cao su về dữ liệu định vị, truy xuất nguồn gốc; tích hợp số liệu về cao su vào hệ thống thông tin quốc gia về rừng và khu vực sản xuất.
EUDR sẽ tạo động lực cho Việt Nam trong việc phát triển ngành cao su theo hướng bền vững hơn. Với khoảng 48% diện tích trồng cao su đại điền, Việt Nam cũng có lợi thế trong việc đáp ứng tiêu chí không chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp của EUDR. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã tích cực đầu tư cho hệ thống chứng chỉ rừng bền vững quốc gia và quốc tế để xây dựng mô hình sản xuất cao su bền vững.
Trần Mạnh, Nam Khánh, Thúy Liễu, Anh Tuấn, Nguyễn Hạnh, V.Lê, Nguyễn Quang, nguồn: https://tuoitre.vn/, https://thoibaotaichinhvietnam.vn, https://vov.vn, https://dangcongsan.vn/, https://congthuong.vn/, https://nhandan.vn/, https://thanhnien.vn/, ngày 17/5/2024 (TN, HV, HG tổng hợp & trích dẫn)